Theo ý kiến ​​của chúng tôi, một trong những nhà cái tốt nhất ở Brazil, và không chỉ ở Brazil. tiền thưởng của 1mostbetuz.com họ chắc chắn nằm trong số những người tốt nhất.
Bút ký

HIỀN LƯƠNG – BẾN HẢI TRONG HÀNH TRÌNH 70 NĂM VĨNH LINH LŨY THÉP – LŨY HOA


Ngày cập nhật: 15/02/2024 00:00:00

Hiền Lương – Bến Hải là tên gọi cụm di tích Đặc biệt đôi bờ sông Bến Hải thuộc địa phận Vĩnh Linh và Gio Linh tỉnh Quảng Trị. Nơi đây là nhân chứng một thời chia cắt đất nước, chia đôi Quảng Trị suốt hơn 20 năm dằng dặc, là biểu tượng của khát vọng thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam. Vĩ tuyến tọa độ lửa đã chứng kiến bao biến thiên của hành trình 70 năm (1954 - 2024) gian khổ hy sinh, chiến công lừng lẫy, thắng lợi hoàn toàn; nỗ lực khắc phục hậu quả nặng nề của sự tàn phá, kiến thiết xây dựng, đổi mới, hội nhập và phát triển của mảnh đất Vĩnh Linh Lũy thép - Lũy Hoa.

 

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải tại km 735 trên đường thiên lý Bắc – Nam. Bến Hải là con sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy dọc theo vĩ tuyến 17 từ Tây sang Đông rồi đỗ ra biển Cửa Tùng. Sông Bến Hải xưa tên là Minh Lương. Thời Minh Mạng, do húy chữ “Minh” nên tên làng tên sông đều đổi thành Hiền Lương. Sông Bến Hải do người Pháp đọc chệch từ địa danh Bến Hải (bến thứ hai) ghi trên bản đồ. Con sông có tổng chiều dài trên 70 km, nơi rộng nhất khoảng 200m, nơi hẹp nhất khoảng 20 – 30m; là ranh giới giữa hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh của tỉnh Quảng Trị. Hiệp định Genève 20/7/1954 quy định lấy vĩ tuyến 17, sông Bến Hải được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời; sau hai năm sẽ thực hiện cuộc Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước Việt Nam (quy định vào tháng 07/1956). Vậy mà, cả dân tộc phải thực hiện một cuộc trường chinh kéo dài hơn 20 năm đấu tranh gian khổ để thống nhất đất nước:

Cách nhau chỉ một mái chèo

Mà đi trăm núi vạn đèo đến đây

(Thanh Hải)

Biết bao nhiêu đau thương, tang tóc mà người dân đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải phải gánh chịu. Bao cảnh nhà ly tán, chồng Bắc, vợ Nam: “Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ - Cách một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa”.

Với âm mưa xóa bỏ Hiệp định Genève, chia cắt lâu dài đất nước ta, bọn Mỹ - Diệm xây dựng một loạt đồn bốt rãi dài bờ Nam sông Bến Hải kéo dài từ Cửa Tùng đến Hói Cụ; với đội quân thám báo, mật vụ nhằm kìm kẹp, ngăn cản mọi sự qua lại của người dân đôi bờ. Từ năm 1954 đến cuối năm 1964, đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải im tiếng súng, nhưng gần 11 năm Vĩnh Linh tuyến đầu miền Bắc XHCN đã chứng kiến biết bao cuộc đấu trí và đấu lý gay gắt và quyết liệt giữa ta và địch:

 

Đó là cuộc chiến màu sơn: Cầu Hiền Lương do Pháp xây dựng lại vào 5/1952, dài 178m, 7 nhịp, trụ bằng bê tông cốt thẹo, mặt cầu lát gỗ thông, rộng 4 mét. Từ khi sông Bến Hải thành giới tuyến, cầu Hiền Lương cũng bị chia đôi, mỗi bên dài 89m, sơn hai màu khác nhau. Bờ Bắc 450 tấm ván mặt cầu. Bờ Nam 444 tấm (Ký sự của Nguyễn Tuân). Đường ranh giới phân chia Nam – Bắc là một vạch sơn trắng rộng 1 cm làm ranh giới  hai miền. Hàng ngày Công an và Cảnh sát hai miền đổi gác, đổi phiên qua về theo chế độ liên hợp. Âm mưa dùng màu sơn để tạo nên hình ảnh chia cắt đất nước ta, Mỹ - Chính quyền Sài Gòn chủ động sơn màu xanh nửa cầu phía Nam. Nhưng với ý nguyện “thống nhất non sông”, chúng vừa sơn xong hôm đầu, thì trong đêm, Công an ta sơn nửa phần cầu bờ Bắc bằng màu xanh cho hòa một màu. Thời gian sau chúng lại cho người ra sơn lại phần cầu phía Nam bằng màu nâu. Cứ thế, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc. Hễ địch sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu đối lập, thì lập tức ta sơn lại thành một màu chung. “Cuộc chiến sơn màu cầu” kéo dài gần 5 năm trời, cuối cùng chính quyền Sài Gòn chịu thua để cho chiếc cầu chung một màu thống nhất.

 

Đó là cuộc chiến không tiếng súng giữa Công an vũ trang giới tuyến và Cánh sát Sài Gòn giai đoạn 1954 – 1964: Cuộc đấu trí và đấu lý của Công an giới tuyến nhằm bảo vệ hòa bình với Cảnh sát ngụy Sài Gòn cũng rất phức tạp và căng thẳng. Theo Hiệp định Genève, mỗi bên có 2 đồn Công an và Cảnh sát: đồn Hiền Lương, Cửa Tùng (bờ Bắc), đồn Xuân Hòa và Cát Sơn (bờ Nam) thường gọi là đồn Liên hợp. Số Cảnh sát mỗi đồn quy định không quá 20 người. Công an và Cảnh sát hai bờ có nhiệm vụ giữ gìn quy chế khu phi quân sự, kiểm tra người qua lại giới tuyến. Ai muốn qua phải có giấy thông hành do hai đồn hai bên cấp, chỉ được vào các chợ buôn bán, không được đi sâu vào các làng xóm. Hàng tháng vào ngày chẵn, một tổ 3 Công an của ta mang sổ trực qua cầu sang bờ Nam, và vào ngày lẻ, một tổ 3 Cảnh sát ngụy sang bờ Bắc trao đổi công tác. Ở đồn Cửa Tùng, mỗi tuần hai bên “đổi bờ” một lần với một tổ 6 người. Mỗi đồn thường xuyên có 2 người trực, một ta một địch. Đến cuối tuần hai bên cùng ký biên bản đổi bờ. Cuốn “sổ trực ban” đồn Cửa Tùng hiện vẫn còn được lưu giữ tại Nhà bảo tàng ở đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải. Gọi là đồn liên hợp nhưng Cảnh sát Sài Gòn thì luôn luôn gây thù hằn, chia rẽ; Công an của ta thì kêu gọi đoàn kết thống nhất. Tại Đồn Liên hợp đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh căng thẳng. Cảnh sát Sài Gòn nói xấu chế độ miền Bắc, đi đứng nghênh ngang, nói năng tục tỉu, tặng quà mỵ dân. Tháng 4/1960, một tổ Cảnh sát Sài Gòn sang bờ Bắc làm việc, chúng lân la đến tổ dệt xăm (lưới) của phụ nữ Vĩnh Quang, nói xấu miền Bắc, lập tức bị các chị đáp lại thẳng thừng: “Các anh có mắt như mù, Mỹ - Diệm không độc ác sao có Luật 10 – 59” làm cho chúng không nói thêm gì được. Điều trớ trêu là chiến sĩ Công an ta phải cùng đi với kẻ thù trên một con đò, ngồi cùng một bàn làm việc. Có những lúc địch dùng vũ lực thô bạo, khiêu khích đe dọa đến tính mạng, nhưng các chiến sĩ vẫn bình tình, dũng cảm đấu trí, đấu lý vạch mặt kẻ thù. Ngày 24/4/1962, bọn địch xúi linh mục và 150 giáo dân di cư ở bờ Nam tổ chức mít tinh phản đối chế độ miền Bắc, lập tức bị các chiến sĩ ta vạch mặt bằng những lời rất thuyết phục, buộc đám biểu tình phải giải tán. Lối sống văn hóa và lòng nhân ái của chiến sĩ ta đã thức tỉnh nhiều tên sĩ quan và binh lính Sài Gòn. Tháng 7/1959, hai Cảnh sát đồn Cát Sơn qua đò đổi gác, thuyền bị gió lật chìm. Cảnh sát bờ Nam nhìn đồng đội mình bị nạn mà không cứu, Công an đồn Cửa Tùng ở bờ Bắc đã nhanh chóng lao xuống sông cứu sống hai Cảnh sát ngụy. Hành động đó đã cảm hóa một số Cảnh sát bờ Nam, làm phân hóa đội ngũ của chúng. Nhờ đó, các chiến sĩ Công an ta xây dựng được nhiều cơ sở nội tuyến trong lòng địch.

 

Đó là cuộc chiến âm thanh: Sau Hiệp định Genève, nhằm giáo dục, động viên nhân dân đấu tranh thống nhất đất nước, ta đã cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh, phân bố thành 5 cụm suốt chiều dài 1.500 mét ở bờ Bắc. Mỗi cụm 24 loa loại 25W hướng về bờ Nam. Mỗi ngày 24/24 giờ, hệ thống loa này phát đi chương trình của Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền thanh Vĩnh Linh, với chương trình ca nhạc, ngâm thơ, nói vè, kịch, dân ca, chương trình của Đội truyền thanh lưu động… rất hấp dẫn. Ai đã từng sống ở đôi bờ Bến Hải những năm 1954 – 1964 hẳn còn vang vọng trong kí ức giọng ca Huế và dân ca Trị - Thiên, giọng ngâm thơ ngọt ngào của nghệ sĩ Nhân dân Châu Loan. Tức tối, mấy tuần sau, Mỹ - Diệm liền gắn ở bờ Nam những cụm loa do Tây Đức, Úc sản xuất có công suất lớn, phát inh ỏi, lấn át cả loa phát của ta. Hơn nữa, hệ thống loa phóng thanh của ta công suất nhỏ, không phát đến được Cửa Việt, chợ Cầu… Thế là Trung ương cấp thêm 8 loa công suất gấp đôi (50W) và một loa công suất 250W để tăng giọng phát âm. Nhờ đó, mỗi lần địch lên giọng tâm lý chiến, hệ thống loa bờ Bắc phát lên át hẳn tiếng nói của chúng. Địch tức tối, đầu năm 1960, một giàn loa Mỹ với công suất lớn được đưa đến bờ Nam. Bọn chúng huyênh hoang: “Hệ thống loa “nói vỡ kính” này sẽ vang xa đến tận Quảng Bình, dân bờ Bắc được nghe rõ riếng nói của chính nghĩa quốc gia…”. Ta không chịu thua. Năm ấy, một chiếc loa có đường kính vành loa 1,7 mét, công suất 500W xuất hiện. Bổ sung thêm còn có 20 loa loại 50W, 4 loa loại 250W. Để cung cấp điện cho hệ thống loa có tổng công suất 7.000W này, ta đã dựng một đường dây cao thế 6 KVA dài 10 km kéo từ thôn Tiên An (Vĩnh Sơn) về đến Tùng Luật (Vĩnh Giang) và một trạm cao tần đặt cách cầu Hiền Lương 2,5 km về phía Bắc để tăng âm cho hệ thống loa. Các cụm loa được đặt trên trụ bê tông cốt thép kiên cố. Riêng chiếc “loa đại” 500W đặt trên xe lưu động. Khi thuận gió, tiếng loa có thể truyền xa 10 km, đến tận Chợ Cầu, Cửa Việt, Gio An. Đồng bào các làng xã bờ Nam vô cùng sung sướng vì hàng ngày họ được nghe rất rõ tiếng nói thân thuộc của miền Bắc ruột thịt. Để “đấu khẩu”, Mỹ - Diệm đã tung ra Bến Hải những tên tâm lý chiến nguy hiểm. Mỗi ngày chúng nói từ 14 đến 15 tiếng đồng hồ, một hai giờ sáng đã mở hết công suất loa. Chúng nói những điều xuyên tạc lịch sử, ca ngợi “Ngô Tổng thống là người thương dân, yêu nước…”. Trong khi trên các cánh đồng Vĩnh Linh máy cày, máy bơm đang hoạt động thì chúng lại lu loa: “Việt Nam bắt người kéo cày thay trâu…”. Tên “tâm lý chiến” lè nhè hàng đêm tên là Phương. Vào một đêm năm 1963, 4 chiến sĩ Công an ta đã bí mật vượt sông, được bà con bờ Nam chỉ đường, giết tên Phương ngay lúc nó đang gào thét trên loa phóng thanh. Bà con hai bờ hả lòng, hả dạ bởi họ từ nay không bị đánh thức lúc nửa đêm, không phải nghe những lời bỉ ổi, dối trá nữa. Đến năm 1965, khi Mỹ ném bom miền Bắc, hệ thống loa phóng thanh của cả hai bờ hoàn toàn ngưng hoạt động.

 

Và đây là cuộc “Chọi cờ”. Là cuộc chiến một mất một còn diễn ra trong suốt 14 năm ròng rã. Ngày 10/8/1954, Đồn Hiền Lương dựng cột cờ bằng cây phi lao cao 12m với khổ cờ cao 3,2 x 4,8m (15,36m2). Bọn Pháp liền cắm cờ tam tài của chúng lên nóc lô cốt Xuân Hòa phía Nam cầu, cao 15 mét. Bà con hai bờ yêu cầu: Cờ ta nhất định phải cao hơn cờ địch. Thế là các chiến sĩ ta lại lặn lội lên rừng tìm được cây gỗ cao 18 mét về làm cột cờ. Trên định cột treo lá cờ cao 24 m2. Chỉ mấy tháng sau, Ngô Đình Diệm cho xây dựng cột cờ bằng xi măng cốt thép cao 30 mét với lá cờ 3 sọc lớn, có đèn nê ông nhấp nháy đủ màu như thách đố. Sau khi dựng cờ, loa phóng thanh địch rêu rao: “Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cho dựng cờ cao 30 mét ở Vĩ tuyến 17 để dân chúng Bắc Việt thấy rõ chánh nghĩa quốc gia”. Không chịu thua, 7/1957, các chiến sĩ Công an Hiền Lường đã dựng một cột cờ bằng thép ống cao 34,5 mét với lá cờ rộng 108 m2. Trên đỉnh cột cờ có gắn một ngôi sao bằng đồng có đường kính 1,2 mét. 5 đỉnh ngôi sao gắn một chùm 15 bóng điện loại 500W. Khi lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao vút, đồng bào hài bờ Bắc Nam ôm nhau reo mừng. Ngắm lá cờ Tổ quốc bay cao lồng lộng, ai cũng trào nước mắt. Mỹ - Ngụy hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện này. Chúng vội vàng tôn cột cờ của chúng lên 35 mét, và lên giọng mỉa mai: Bắc Việt muốn chọi cờ, nhưng sao chọi nổi quốc gia. Đáp lại lòng mong mỏi của đồng bào, năm 1962, Chính phủ đã điều một đơn vị xây dựng vật liệu từ Hà Nội vào xây cột cờ cao 38,6 mét, kéo lên lá cờ 134 m2, nặng 15 kg. Cách định cột cờ 10 mét có một ca-bin để chiến sĩ ta đứng thu và treo cờ. Đây là cột cờ cao nhất giới tuyến. Lá cờ đỏ sao vàng bay cao là niềm tin, là ngôi sao Bắc Đẩu của bà con bờ Nam, là niềm kiêu hãnh và biểu tượng sức mạnh của bà con bờ Bắc. Nhân dân tận vùng Cửa Việt, Chợ Cầu, Gio An… ở xa hàng chục cây số vẫn nhìn thấy rõ lá cờ Tổ quốc đang vẫy gọi. Hiểu tấm lòng bà con hai bờ, các chiến sĩ Công an đồn Hiền Lương hàng ngày kéo cờ lên sớm hơn và hạ cờ muộn hơn (6h30 và 18h30) để bà con thêm thời gian ngắm cờ. Ngày lễ, tết, cờ ta bay trên đỉnh suốt ngày đêm. Từ năm 1965, Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Từ đây, quân và dân Vĩnh Linh bước vào một cuộc chiến tranh mới. Cột cờ Hiền Lương là mục tiêu đánh phá trước tiên của máy bay, tàu chiến Mỹ. Ngày 08/2/1965, Nguyễn Cao Kỳ lái chiếc máy bay AD6 bắn phá cột cờ, nhưng bị pháo cao xạ Vĩnh Linh bắn bị thương suýt mất mạng. Ngày 17/9/1965, một tốp “thần sấm” Mỹ lao xuống ném bom cột cờ. Mảnh bom bắn vào cột cờ chan chát, khói bụi mù mịt. Nhưng cột cờ vẫn đứng vững. Tức tối, máy bay Mỹ lại nhào xuống thấp hơn, nhưng bị các chiến sĩ bảo vệ cờ bắn trả quyết liệt. Bọn giặc lái hốt hoảng vãi bom trúng đồn Cảnh sát ngụy bờ Nam làm 87 tên chết và bị thương, trong đó có tên đồn trưởng. Ngày 02/8/1967, địch lại tập trung nhiều tốp máy bay thi nhau ném bom một ngày liền, làm cho cầu Hiền Lương bị sập và cột cờ ta bị gãy. Ngay đêm đó, bằng một cột điện nối thêm cây gỗ, một cột cờ mới lại được dựng lên, làm nức lòng đồng bào hai bờ sông. Cũng may trong đêm đó, các chiến sĩ đặc công Thủy đoàn 126A và dân quân vùng Bắc giới tuyến đã dùng bộc phá đánh sập cột cờ bờ Nam, chấm dứt vĩnh viễn lá cờ ba que của Ngụy Sài Gòn trên bầu trời giới tuyến. Trong công cuộc chiến đấu bảo vệ lá cờ Tổ quốc ở đầu cầu giới tuyến, có 13 đồng chí công an và dân quân đã hy sinh, 8 đồng chí bị thương. Người dân Vĩnh Linh còn nhắc mãi tấm gương mẹ Nguyễn Thị Diệm, bác Nguyễn Đức Lãng… những người may cờ vá cờ trong bom đạn. Bác Nguyễn Đức Lãng, người chiến sĩ quân đội trong nhiều năm liên tục đã ra Hà Nội nhận cờ. Từ năm 1954 đến 10/1967, Công an Hiền Lương đã dùng hết 267 lá cờ các cỡ. Những năm tiếp theo, các chiến sĩ công an đã thêm 11 lần dựng lại cột cờ bằng gỗ cao từ 12 đến 18 mét, 42 lần thay lá cờ…

Trong vô vàn sự kiện và chứng tích trên Đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải – Vĩ tuyến 17 thì những địa danh thuộc Vĩnh Linh ghi dấu ấn sâu đậm: Đôi bờ cầu Hiền Lương; Đồn Công an nhân dân vũ trang Cửa Tùng; các Bến đò A, B, C, Thượng Đông, Dục Đức… là nơi tập trung nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, không chỉ ảnh hưởng đến vùng đất hai bên Vĩ tuyến 17 mà còn là nơi thể hiện sự đối đầu giữa hai chế độ, hai thế lực, giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ xâm lược. Những địa điểm đó đã trở trành những di tích có giá trị tiêu biểu, phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất về một giai đoạn lịch sử hào hùng của quân và dân Vĩnh Linh, Quảng Trị nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

 

Vĩnh Linh Lũy thép – Lũy hoa: Trong suốt hơn 20 năm (1954 – 1975) ở nơi vị trí tuyến đầu Tổ quốc, Vĩnh Linh vừa sản xuất, vừa chiến đấu và bảo vệ quê hương phục vụ chiến trường miền Nam. Sau khi thua to ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ dã tâm ném bom, bắn phá miền Bắc, chính quyền Ngô Đình Diệm hô hào lấp sông Bến Hải thực hiện kế hoạch “Bắc tiến”. Kể từ sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 02/8/1964, ngày 05/8/1964 đế quốc Mỹ đã tiến hành ném bom bắn phá miền Bắc hòng đưa miền Bắc trở về “thời kỳ đồ đá”. Ngày 08/8/1964 máy bay Mỹ đã tiến hành ném bom bắn phá đảo Cồn Cỏ và cũng bắt đầu từ đó cho đến tháng 5/1973 Vĩnh Linh đã trở thành pháo đài lửa, là nơi đọ sức quyết liệt giữa một bên là khát vọng hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc với một bên là đế quốc xâm lược và bọn tay sai bán nước. Với khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không rời”, trong ác liệt của chiến tranh Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh đã kịp thời chỉ đạo chuyển cuộc sống từ trên mặt đất xuống hầm, hào, địa đạo, vừa sản xuất vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, kề vai sát cánh với các đơn vị chủ lực của Quân đội, đánh trả quyết liệt với các lực lượng và binh chủng của Mỹ - Ngụy giữ cho lá cờ Tổ quốc thường xuyên tung bay trên đầu cầu giới tuyến, Vĩnh Linh luôn vững vàng trên đầu sóng, ngọn gió, hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam của chiến trường Trị - Thiên ruột thịt. Cũng trong thời gian đó, quân và dân Vĩnh Linh độc lập và phối hợp với các đơn vị chủ lực đã bắn rơi 293 máy bay Mỹ, 69 tàu chiến, 85 sà lan, bắt sống 26.739 tên địch, bắn sập 99 lô cốt, 5 dàn ra đa, 83 khẩu pháo lớn để làm nên những chiến công hiển hách. Hiện tại có 8.470 liệt sỹ là những người con của mọi miền đất nước đang yên nghĩ trên mảnh đất Vĩnh Linh.; gần 2.000 thương bệnh binh, 233 bà mẹ Việt Nam Anh hùng đã đóng góp một phần xương máu và những người con thân yêu của mình cho Tổ quốc quyết sinh; Có 44 tập thể và 17 cá nhân được Đảng và Nhà nước phong tặng tập thể Anh hùng trong đó có đặc khu Vĩnh Linh trước đây, huyện Vĩnh Linh ngày nay 3 lần được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng. Đặc biệt với những người chiến công xuất sắc, Bác Hồ đã 8 lần gửi thư khen ngợi quân và dân Vĩnh Linh, trong đớ có những câu thơ sống mãi trong lòng Nhân dân Vĩnh Linh, Quảng Trị:

“Cồn Cỏ nở đầy hoa thắng trận

Đánh cho tan xác giặc Huê Kỳ”

***

“Đánh cho giặc Mỹ tan tành

Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

Kết thúc chiến tranh, bình quân một người dân Vĩnh Linh phải gánh chịu trên 7 tấn bom và 10 quả pháo các loại của đế quốc Mỹ đã trút xuống trên mảnh đất Vĩnh Linh. Từ hầm hào, địa đạo đi lên, đứng trên đống tro tàn đổ nát, Đảng bộ quân và dân Vĩnh Linh đã biến đau thương thành hành động cách mạng, đoàn kết quyết tâm xây dựng lại quê hương, tiến hành san lấp hố bom, cải tạo đồng ruộng, dựng lại nhà cửa, tháo gỡ bom mìn để tăng gia sản xuất, chỉ trong một thời gian không dài từ 1974 đến 1986 cùng với sự giúp đỡ của TW, của tỉnh, Đảng bộ và Nhân dân Vĩnh Linh đã cơ bản hoàn thành công tác quy hoạch và cải tạo ruộng đất, từng bước xây dựng các công trình thủy lợi, xây dựng, củng cố các loại hình Hợp tác xã, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao đời sống của Nhân dân.

Đặc biệt từ ngày thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ và Nhân dân Vĩnh Linh đã đoàn kết, đồng sức đồng lòng, năng động sáng tạo, khai thác có hiệu quả các tiềm năng thế mạnh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi một cách hợp lý tạo hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh. Cùng với việc tăng trưởng về kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân, bộ mặt của huyện từ thị trấn xuống nông thôn thường xuyên được thay đổi: 100% trường học, trạm xá được kiên cố và cao tầng hóa; hệ thống giao thông, thủy lợi được xây dựng và quy hoạch đồng bộ; quốc phòng, an ninh được giữ vững là cơ sở quan trọng để Vĩnh Linh phấn đấu trở thành huyện Nông thôn mới, góp phần cùng cả tỉnh và cả nước thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và phát triển của quê hương, đất nước…Với thành tích xuất sắc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới, ngày 23/11/2011 Đảng và Nhà nước đã trao danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới cho Đảng bộ và Nhân dân Vĩnh Linh.

Sau ngày giải phóng, thống nhất non sông (30/4/1975), di tích Đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải được trung ương và tỉnh Quảng Trị quan tâm đầu tư tôn tạo. Qua từng năm việc trùng tu, tôn tạo các di tích thuộc hệ thống Đôi bờ Hiền Lường – Bến Hải  để tương xứng với tầm vóc, giá trị lịch sử của nó được chú trọng nhiều hơn. Ngày 09/12/2013, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2383/QĐ-TTg xếp hạng Quốc gia đặc biệt cụm Di tích Hiền Lương – Bến Hải. Sau quyết định này, cụm di tích đặc biệt Hiền Lương – Bến Hải được đầu tư đáng kể và hiện nay Quảng trị đang tích cực huy động nhiều nguồn lực tôn tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng “công viên Thống nhất”, xây dựng biểu tượng “ước nguyện Hòa bình”, nhằm làm nơi giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ, phục vụ khách tham quan du lịch và lan tỏa giá trị hòa bình. Khu di tích đặc biệt quốc gia này trở thành điểm nhấn quan trọng trong hệ thống di tích lịch sử, văn hóa tỉnh Quảng Trị và là điểm đến hấp dẫn cho khách du lịch trong và ngoài nước. Đặc biệt, với Lễ hội Thống nhất non sông, một lễ hội cách mạng đã được xây dựng có nội dung phù hợp với giá trị lịch sử di tích được tổ chức hàng năm tại đôi bờ cầu Hiền Lương là giá trị đặc sắc về văn hóa phi vật thể, làm nên phần hồn cho di tích. Lễ hội Thống nhất non sông đã trở thành Ngày hội Thống nhất Non sông và là lễ hội cách mạng đặc sắc, riêng có ở khu di tích Hiền Lương – Bến Hải, Quảng Trị, là nét văn hóa đặc trưng của Quảng Trị, góp phần làm phong phú thêm hoạt động lễ hội trên toàn quốc, nhất là mô hình tổ chức các lễ hội mới. Năm 2024 được sự đồng ý của Trung ương, tỉnh Quảng Trị sẽ phối hợp với các ban, bộ, ngành tổ chức Lễ hội Vì Hòa bình, cụm di tích Hiền Lương – Bến Hải là địa điểm chủ yếu tổ chức lễ hội đặc biệt này.

Hành trình 70 năm với biết bao sự kiện không thể nào quên, mảnh đất đầu cầu giới tuyến Vĩnh Linh đã chứng kiến và tham gia trực tiếp vào các sự kiện quan trọng của đất nước. Mảnh đất đặc biệt 3 lần được tặng danh hiệu Anh hùng trong chiến tranh và danh hiệu Anh hùng trong thời kỳ đổi mới, được Bác Hồ 8 lần gửi thư khen và có những lời thơ hết sức xúc động vừa oai hùng trong chiến đấu lại đi đầu trong thời kì đổi mới, đang khẩn trương hoàn thành các tiêu chí để trở thành huyện Nông thôn mới vào dịp kỷ niệm 70 năm ngày Truyền thống của mình 25/8/2024.

                                                                          Nguyễn Văn Dùng
Bài viết đăng trên Thời báo Văn học Nghệ thuật - Số đặc biệt Xuân Giáp Thìn 2024

 

 

 Liên hệ - Góp ý  Quay lại!

CÁC TIN KHÁC
HIỀN LƯƠNG – BẾN HẢI TRONG HÀNH TRÌNH 70 NĂM VĨNH LINH LŨY THÉP – LŨY HOA (15/2/2024)
Giao lưu, tiếp biến văn nghệ nước ngoài (TS. Nguyễn Văn Dùng) (21/11/2023)
75 NĂM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT QUẢNG TRỊ ĐỒNG HÀNH CÙNG QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC (24/7/2023)
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG VÀ CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ VĂN NGHỆ SĨ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI (12/7/2023)
Cam Lộ bừng sáng - Tác giả: Đào Tâm Thanh (Bài trại sáng tác về chủ đề Công an Quảng Trị) (9/9/2021)
Một thiên tình sử bên dòng Ô Lâu - Tác giả: Minh Tứ (Bài trại sáng tác về chủ đề Công an Quảng Trị) (9/9/2021)
Tạp chí Cửa Việt và hành trình mới (1/8/2021)
Nhớ Bác (29/7/2019)
Ca mổ đặc biệt (15/5/2019)
NHẠC QUÊ HƯƠNG

LIÊN KẾT WEBSITE

THỐNG KÊ TRUY CẬP

Copyright 2024 by HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT QUẢNG TRỊ